KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG
  TÓM TẮT            Trong những năm qua, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết, kết luận về xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Các  đơn vị trong tổ chức bộ máy nhà nước đang từng bước được sắp xếp, kiện toàn trong đó có việc thay đổi cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.    
 

HIỆU QUẢ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TRONG CÔNG TÁC CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH TẠI TRUNG TÂM

ỨNG DỤNG TIẾN BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TỈNH GIA LAI

                             

                                                                Võ Thị Thùy Ngân

                                                               Trưởng phòng KH-TH,TTUD tiến bộ KH&CN tỉnh Gia Lai 

                                                               E-mail: vothuyngan1990@gmail.com

 

           TÓM TẮT

         Trong những năm qua, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết, kết luận về xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Các đơn vị trong tổ chức bộ máy nhà nước đang từng bước được sắp xếp, kiện toàn trong đó có việc thay đổi cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Là một trong những đơn vị đầu tiên được Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai chọn thí điểm về tự chủ chi thường xuyên từ ngày 20 tháng 5 năm 2019 tại Quyết định số 254/QĐ-UBND, theo đó Trung tâm Ứng dụng tiến bộ Khoa học và Công nghệ tỉnh Gia Lai là tổ chức khoa học và công nghệ công lập tự đảm bảo chi thường xuyên, không tự đảm bảo chi đầu tư theo điểm b, Khoản 2, Điều 3 của Nghị định 54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016 của Chính phủ. Việc chuyển đổi cơ chế hoạt động này đã thực sự khơi dậy tính năng động, sáng tạo của đơn vị, góp phần giải phóng sức sản xuất, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Trung tâm Ứng dụng tiến bộ Khoa học và Công nghệ tỉnh Gia Lai trong giai đoạn mới.

         Từ khóa: cải cách hành chính, tự chủ, đơn vị sự nghiệp

         1. Cơ sở lý luận trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác cải cách hành chính tại Trung tâm Ứng dụng tiến bộ Khoa học và Công nghệ tỉnh Gia Lai

         Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam). Do vậy, những di sản mà Người để lại về nền hành chính nhà nước là vô cùng quý báu. Càng đi sâu vào nghiên cứu, chúng ta càng thấy những chỉ dẫn của Người về nền cải cách hành chính công là thiết thực, mang tính thời sự cấp bách. Có thể nói, riêng đối với lĩnh vực hành chính nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nhà tư tưởng, nhà lý luận mà Người còn là kiến trúc sư lỗi lạc của nền hành chính Nhà nước Việt Nam về tất cả các nhân tố cấu thành của nó: xây dựng thể chế tổ chức bộ máy, chế độ công vụ, công chức, lề lối làm việc, kỹ thuật hành chính và cơ chế vận hành, rèn luyện đạo đức, sửa đổi cách làm việc chống quan liêu lãng phí, tham ô, đảm bảo xây dựng một nền hành chính thực sự của dân, do dân và vì dân [3].

         Để xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng cần thiết phải học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về cải cách hành chính. Cải cách hành chính nhà nước là tạo ra những thay đổi trong các yếu tố cấu thành của nền hành chính nhằm làm cho các cơ quan hành chính nhà nước hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội tốt hơn. Cải cách hành chính không làm thay đổi bản chất của hệ thống hành chính, mà chỉ làm cho hệ thống này trở nên hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân được tốt hơn so với trước.

         Theo tư tưởng của Người, muốn đổi mới nền hành chính cần tiến hành trên cả ba phương diện, đó là: Không ngừng đổi mới và ngày càng tăng cường tính chất “nhân dân” của bộ máy hành chính; xây dựng bộ máy của các cơ quan hành chính từ Trung ương đến địa phương luôn sát dân, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; kiên trì xây dựng một đội ngũ cán bộ hành chính có lòng trung thành, có đạo đức cách mạng và có kỹ năng hành chính tốt, ngày càng chính quy, hiện đại. Nhiều nguyên tắc do Chủ tịch Hồ Chí Minh quy định hiện nay vẫn còn nguyên giá trị như “những gì có lợi cho dân phải hết sức làm, những gì có hại cho dân phải hết sức tránh”; “vì việc mà tìm người chứ không vì người mà đặt việc”; “xây dựng một nhà nước ít tốn kém”…

         Cải cách hành chính ở nước ta hiện nay diễn ra trong khuôn khổ của cải cách nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là tiền đề quan trọng để thực hiện thành công quá trình đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011- 2020 ban hành theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 8/11/2011 của Chính phủ đã xác định 05 mục tiêu cải cách hành chính, trong đó, xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước là một mục tiêu quan trọng. Nếu như trong lĩnh vực kinh tế, sự chuyển đổi từ kinh tế chỉ huy quan liệu bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang giải phóng và phát huy mọi tiềm năng của nền kinh tế đất nước, thì cũng tương tự như vậy, trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, tự chủ, tự chịu trách nhiệm được xem là chìa khóa giải phóng nguồn lực phát triển khoa học và công nghệ.

         Khoa học và công nghệ đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng và an ninh. Nhận thức được tầm quan trọng của khoa học và công nghệ, Đảng và Nhà nước ta đã tạo mọi điều kiện cho phát triển khoa học và công nghệ, đã ban hành các Nghị quyết mang định hướng chiến lược, cơ chế và chính sách phát triển khoa học và công nghệ. Tuy nhiên do đây là lĩnh vực khó, có nhiều rủi ro nên không thể áp dụng cơ chế, chính sách chung cho tất cả các mô hình hoạt động khoa học và công nghệ. Vì vậy, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách riêng cho tổ chức khoa học và công nghệ công lập bên cạnh các chính sách chung cho các đơn vị sự nghiệp công lập về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập như: Nghị định số 115/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05/9/2005 về việc quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập, Nghị định 96/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 20/09/2010 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 05 tháng 09 năm 2005 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập và Nghị định số 80/2007/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ về doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Những Nghị định này được xem là một trong những mốc đánh dấu quan trọng trong việc quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ chức khoa học và công nghệ. Việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập từ cơ chế Nhà nước bao cấp sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm là xu thế tất yếu, nhằm giảm áp lực tài chính cho Ngân sách nhà nước, đồng thời tăng quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập nhằm tạo động lực phát huy sự chủ động, sáng tạo trong hoạt động, nâng cao chất lượng dịch vụ… Thế nhưng, các Nghị định này đã khẳng định triết lý tự chủ từ tiếp cận tài chính và điều này có thể đúng với nhiều tổ chức sự nghiệp công lập nhưng chưa hoàn toàn phù hợp với đặc điểm của hoạt động khoa học và công nghệ. Do đó, sau 10 năm triển khai, quá trình đổi mới các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực khoa học và công nghệ triển khai còn chậm; lộ trình thực hiện tự chủ toàn bộ về nhiệm vụ, biên chế, quản lý, tài chính và hợp tác quốc tế chưa cụ thể và chưa có cơ chế đủ mạnh.

         Giai đoạn 2016-2020, Nhà nước tiếp tục quyết tâm chuyển đổi các tổ chức khoa học và công nghệ công lập thành đơn vị tự chủ về tài chính, xây dựng cơ chế cấp phát gắn chặt với “sản phẩm”, bao gồm sản phẩm Nhà nước giao, sản phẩm nghiên cứu cụ thể và sản phẩm ứng dụng. Chính phủ đã cụ thể hóa quyết tâm trên bằng Nghị định số 54/2016/NĐ-CP ngày 14 tháng 6 năm 2016 của Chính phủ về quy định cơ chế tự chủ của tổ chức khoa học và công nghệ. Theo đó, tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập được chia theo 4 mức độ: Tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; Tự bảo đảm chi thường xuyên (Nhà nước đảm bảo toàn bộ chi đầu tư); Tự bảo đảm một phần chi thường xuyên (Nhà nước đảm bảo toàn bộ chi đầu tư) [1]. Được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên (Nhà nước đảm bảo toàn bộ chi đầu tư). Nghị định 54/2016/NĐ-CP ra đời được coi là công cụ pháp lý đủ mạnh buộc các tổ chức khoa học và công nghệ công lập phải bắt đầu thực hiện tự chủ thay vì dựa vào nguồn Ngân sách nhà nước bao cấp như trước đây. Thực tiễn thời gian qua cho thấy, việc triển khai giao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập đã mang lại một số kết quả tích cực, tạo diều kiện thuận lợi cho các đơn vị chủ động thực hiện nhiệm vụ được giao; phát triển nguồn thu, từ đó góp phần chi trả tiền lương và thu nhập tăng thêm cho người lao động, cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức KHCN công lập.

         2. “Đổi mới cơ chế hoạt động theo Nghị định 54/2016/NĐ-CP” – chìa khóa vàng trong công cuộc xây dựng và phát triển Trung tâm Ứng dụng tiến bộ Khoa học và Công nghệ tỉnh Gia Lai trong giai đoạn mới

         2.1. Kết quả hoạt động sau khi chuyển đổi sang cơ chế tự chủ [2]

         Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016 về việc quy định cơ chế tự chủ của tổ chức khoa học công nghệ công lập, Trung tâm đã xây dựng Phương án tài chính thực hiện cơ chế tự chủ của tổ chức KH&CN công lập giai đoạn 2019-2021 và đã được UBND tỉnh Gia Lai phê duyệt tại Quyết định số 254/QĐ-UBND vào ngày 20/5/2019. Theo đó, Trung tâm là tổ chức khoa học và công nghệ công lập tự đảm bảo chi thường xuyên và không tự đảm bảo chi đầu tư (tại điểm b, Khoản 2, Điều 3 Nghị định 54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016 của Chính phủ) có chức năng phục vụ công tác quản lý nhà nước về KH&CN tại địa phương; đầu mối đẩy mạnh chuyển giao, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, phát triển các hoạt động dịch vụ KH&CN; giới thiệu kết quả nghiên cứu, công nghệ mới có tiềm năng. Việc chuyển đổi cơ chế hoạt động này đã giải quyết được các bất cập tồn tại góp phần nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của Trung tâm Ứng dụng tiến bộ Khoa học và Công nghệ tỉnh Gia Lai trong giai đoạn mới. Sau thời gian hoạt động, Trung tâm đã thu nhận được một số kết quả đáng nổi bật:

         *  Cơ cấu tổ chức bộ máy, nhân sự

         Cơ cấu nhân sự: Trước đây, nguồn nhân lực của Trung tâm rất yếu và mỏng, chỉ 7-8 viên chức và người lao động. Sau khi chuyển đổi cơ chế hoạt động theo hướng tự chủ, Trung tâm đã lên kế hoạch bổ sung nguồn nhân lực cho quá trình nghiên cứu, triển khai, chuyển giao công nghệ và quá trình sản xuất kinh doanh. Tính đến ngày 01/4/2020, nguồn nhân sự của Trung tâm có 14 người (04 viên chức và 10 lao động theo hợp đồng). Ngoài ra, căn cứ vào nhu cầu và điều kiện để phát triển hoạt động khoa học và công nghệ, Trung tâm sẽ hợp đồng thêm lao động.

         Công tác đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: đã được lãnh đạo Trung tâm quan tâm triển khai, tạo điều kiện để viên chức và người lao động Trung tâm tham gia các khóa đòa tạo, tập huấn ngắn hạn nhằm nâng cao kỹ thuật, nghiệp vụ từ nguồn kinh phí dịch vụ của đơn vị. Trình độ nguồn nhân lực của Trung tâm đang từng bước được nâng cao. Hiện nay, Trung tâm có 03 thạc sĩ, 5 kỹ sư, 5 cử nhân.

         * Về hoạt động nghiên cứu, triển khai và chuyển giao khoa học và công nghệ

         Trong giai đoạn thực hiện cơ chế hoạt động theo hướng tự chủ, Trung tâm tập trung triển khai các hoạt động theo đúng chức năng và nhiệm vụ đã được phê duyệt. Hoạt động của Trung tâm đã được định hướng chú trọng vào nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ thông qua các hình thức đăng ký và tham gia đấu thầu tuyển chọn các đề tài, dự án. Trong năm 2019-2020, Trung tâm đã thực hiện 13 nhiệm vụ khoa học và công nghệ các cấp có sử dụng Ngân sách nhà nước với tổng kinh phí 5.788 triệu đồng. Một số kết quả nghiên cứu đã được ứng dụng vào trong thực tiễn sản xuất góp phần phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, cụ thể như:

         Đối với lĩnh vực nông nghiệp:

         - Làm chủ được quy trình kỹ thuật sản xuất giống và đã tiến hành chuyển giao kỹ thuật sản xuất nấm ăn và nấm dược liệu cho doanh nghiệp; quy trình kỹ thuật nhân giống cấp 1 và sản xuất nuôi trồng Đông trùng hạ thảo; quy trình công nghệ tưới tiết kiệm nước và kỹ thuật canh tác tiên tiến trong sản xuất bền vững cà phê và hồ tiêu.

         - Nhân giống nuôi cấy mô đối với các mẫu tiêu sạch bệnh làm cơ sở để cung cấp giống tiêu sạch bệnh;

         - Góp phần bảo tồn và nhân giống một số loại Lan rừng bản địa quý hiếm bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào thực vật.

         Ngoài ra, Trung tâm đã thực hiện công tác tập huấn kỹ thuật trồng, chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh hại trên cây Hồ tiêu, kỹ thuật ứng dụng chế phẩm sinh học trong việc xử lý vỏ cà phê làm phân bón hữu cơ cho người dân trên địa bàn tỉnh; xây dựng và phổ biến các mô hình áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất giúp nông dân thay đổi tập quán canh tác cũng như chủ động hơn trong sản xuất, đảm bảo năng suất, hiệu quả kinh tế, tiết kiệm công lao động, chi phí đầu tư. Đây được xem yếu tố then chốt trong việc thực hiện hiệu quả việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi nhằm xây dựng nền nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong toàn tỉnh. 

         Đối với công tác phục vụ quản lý nhà nước:Hàng năm, Trung tâm phối hợp với Thanh tra Sở triển khai thực hiện công tác phục vụ hoạt động thanh tra, kiểm tra về an toàn bức xạ hạt nhân trên địa bàn tỉnh Gia Lai theo nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng đã được giao.

         Đối với công tác thống kê: Trung tâm thực hiện công tác thu thập thông tin đối với các tổ chức khoa học công nghệ theo Thông tư số 15/2018/TT-BKHCN nhằm thu thập thông tin thống kê thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê ngành khoa học công nghệ và chỉ tiêu thống kê quốc gia thuộc lĩnh vực khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật. Đồng thời, thực hiện công tác lưu giữ các kết quả nhiệm vụ KH&CN của địa phương.

         * Về hoạt động dịch vụ - tư vấn khoa học và công nghệ của đơn vị

         Với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị, giai đoạn 2019-2020, Trung tâm đã phát huy mọi khả năng của đơn vị để cung cấp dịch vụ với chất lượng cao, phát huy tính sáng tạo, năng động trong việc tìm kiếm khách hàng, mở rộng hoạt động dịch vụ - tư vấn khoa học và công nghệ của đơn vị. Ngoài việc thực hiện tư vấn chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật cho các cá nhân, tổ chức có nhu cầu và hoạt động dịch vụ kiểm định các thiết bị X-Quang, từ năm 2019, Trung tâm đã mở rộng thêm các hoạt động dịch vụ - tư vấn khoa học và công nghệ như: Tư vấn cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trên địa bàn tỉnh đăng ký nhãn hiệu hàng hóa theo Luật Sở hữu trí tuệ; tư vấn xây dựng thuyết minh các đề tài, dự án khoa học công nghệ cho các đơn vị cấp huyện.

         *  Về hoạt động sản xuất kinh doanh

         Trước đây, Trung tâm chưa quyết liệt trong việc phát triển các sản phẩm từ các đề tài, dự án các cấp do Trung tâm chủ trì thực hiện. Từ khi thực hiện cơ chế hoạt động tự chủ, Trung tâm đã quan tâm hơn đến việc xây dựng “thương hiệu riêng” cho đơn vị mình để tạo uy tín, tăng nguồn thu cho đơn vị. Do đó, song song với công tác nghiên cứu, ứng dụng chuyển giao công nghệ, Trung tâm đã thực hiện sản xuất một số sản phẩm là kết quả của các đề tài, dự án và thương mại hóa sản phẩm, cụ thể: các loại giống nấm để cung ứng giống cho các hộ dân có nhu cầu trên địa bàn tỉnh, nấm Linh chi, nấm Vân chi, Đông trùng hạ thảo, cây giống nuôi cấy mô… Ngoài ra, Trung tâm đã đưa vào hoạt động Phòng trưng bày giới thiệu sản phẩm khoa học và công nghệ vào đầu năm 2018 để hỗ trợ, giới thiệu, quảng bá các sản phẩm ứng dụng khoa học công nghệ của Trung tâm và các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp khoa học công nghệ trên địa bàn tỉnh Gia Lai và các tỉnh lân cận đến với người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh, góp phần tăng nguồn thu cho Trung tâm.

         * Về công tác đầu tư tăng cường năng lực

         Trong năm 2018-2020, UBND tỉnh Gia Lai giao Sở Khoa học và Công nghệ làm chủ đầu tư dự án “Khu thực nghiệm ứng dụng khoa học và công nghệ” thuộc dự án đầu tư trung hạn “Đầu tư phát triển giống cây trồng- vật nuôi và khu thực nghiệm ứng dụng khoa học và công nghệ” với kinh phí 40 tỷ. Trung tâm là đơn vị được thụ hưởng. Khi dự án hoàn thành và đi vào hoạt động, đây sẽ là nơi triển khai thực nghiệm, nghiên cứu ứng dụng khoa học với các công nghệ tiên tiến cung cấp cho thị trường các loại giống cây trồng chất lượng, các quy trình sản xuất phù hợp với điều kiện tỉnh Gia Lai.

         * Hoạt động hợp tác, phát triển

         Hoạt động hợp tác là một hoạt động có tầm quan trọng đặc biệt giúp Trung tâm tạo nguồn công nghệ mới, nâng cao năng lực chuyên môn của cán bộ kỹ thuật. Do đó, Trung tâm đã nỗ lực tối đa trong duy trì quan hệ hợp tác và tăng cường trao đổi thông tin đối với các Viện nghiên cứu, Trường Đại học và các tổ chức khoa học và công nghệ. Từ khi chuyển sang cơ chế hoạt động tự chủ, Trung tâm đã chủ động hơn trong việc thực hiện hợp tác với nhiều đơn vị, tổ chức trong nước và ngoài nước để thực hiện tốt công tác đào tạo cán bộ, chia sẻ kinh nghiệm, vận hành hiệu quả trang thiết bị máy móc đã được đầu tư.

         2.2. Tồn tại và giải pháp khắc phục

         Trung tâm là một trong những đơn vị sự nghiệp công lập đầu tiên của tỉnh Gia Lai triển khai việc chuyển đổi mô hình hoạt động từ bao cấp sang cơ chế tự đảm bảo chi thường xuyên và tiến tới tự chủ hoàn toàn theo chủ trương của Chính phủ. Tuy nhiên, là đơn vị đi đầu nên trong quá trình chuyển đổi mô hình hoạt động, cần phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, Trung tâm đã và đang gặp những tồn tại, khó khăn nhất định, cụ thể như:

         - Chưa có cơ chế, chính sách để đẩy mạnh việc ứng dụng, nhân rộng kết quả nghiên cứu; còn thiếu những đòn bẩy lợi ích kinh tế để khuyến khích vào việc áp dụng chuyển giao những công nghệ mới, thu hút cán bộ làm công tác nghiên cứu khoa học tại Trung tâm.

         - Việc đầu tư, tăng cường tiềm lực cho Trung tâm bước đầu được tăng cường, tuy nhiên vẫn chưa tương xứng để đáp ứng yêu cầu đưa khoa học và công nghệ phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội.

         - Thiếu nguồn tài chính để đầu tư, đào tạo đội nghĩ cán bộ kỹ thuật, tiếp nhận những công nghệ mới và làm chủ những công nghệ mũi nhọn.

         - Một số bộ phận viên chức và người lao động còn thiếu chuyên nghiệp, chưa đủ quyết liệt đổi mới, còn mang nặng tư tưởng phụ thuộc vào Ngân sách nhà nước.

         Vì vậy, trong tương lai, Trung tâm cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực kỹ thuật chuyên sâu, cán bộ quản lý trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ; đẩy mạnh khai thác hiệu quả máy móc, trang thiết bị hiện có đã được đầu tư; tiếp tục ổn định nguồn thu dịch vụ; đẩy mạnh thương mại hóa các sản phẩm chủ lực tâm từ các đề tài nghiên cứu ứng dụng; tăng cường công tác hợp tác với các trường đại học, viện nghiên cứu để tiếp tuc xây dựng mô hình hoạt động Trung tâm phát triển theo hướng tự đảm bảo chi thường xuyên và hơn nữa là tự đảm bảo chi đầu tư.

         3. Giải pháp triển khai cơ chế tự chủ cho các tổ chức khoa học và công nghệ công lập [4]

         Trong bối cảnh như hiện nay, khi mà Chính phủ xác định việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước là một mục tiêu quan trọng thì chúng ta cần phải có sự đổi mới về cơ chế hoạt động của một số đơn vị nhà nước trên các mặt chủ yếu: khoa học, tài chính, tổ chức và nhân sự.

         Trên cơ sở thực hiện việc chuyển đổi cơ chế hoạt động tự chủ tại Trung tâm Ứng dụng tiến bộ Khoa học và Công nghệ, thuộc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Gia Lai, hy vọng sẽ giúp các tổ chức đơn vị sự nghiệp công lập khác nhận diện và có những giải pháp khắc phục những rào cản trong quá trình chuyển đổi hoạt động theo hướng tự chủ phù hợp với thực tiễn.

         3.1. Về khoa học

         Các đơn vị sự nghiệp công lập cần thiết phải xây dựng cho mình văn hoá tổ chức và sáng tạo nên một sứ mạng cao cả; lập kế hoạch chiến lược, quản lý mà không dùng đến thẩm quyền trực tiếp, xác định vấn đề; phát hiện khách hàng, khám phá, vạch đường, thể hiện qua hành động, huấn luyện; tạo cơ chế chính sách khuyến khích-động viên, chú trọng đến sản phẩm, quán triệt sự cam kết với chất lượng, sáng tạo môi trường cho đổi mới-sáng tạo, xây dựng các nhóm làm việc, tái thiết kế công việc, đầu tư vào con người, trao đổi thống nhất kế hoạch với cấp dưới khi giao nhiệm vụ, và quản lý qua vi hành. 

         Trong hoạt động, các đơn vị sự nghiệp công lập cần đơn giải hóa thủ tục hành chính để tạo thuận lợi, thu hút khách hàng và người dân đến liên hệ công tác. Muốn đơn giản hóa các thủ tục hành chính, cần phải áp dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ vào hoạt động như:

         - Sử dụng Hóa đơn điện tử để rút ngắn các thủ tục, hành chính hóa giấy tờ.

         - Tạo đường dây hotline, website riêng của đơn vị để người dân dễ liên hệ, thuận tiện cho việc tư vấn giúp giảm thời gian làm việc.

         - Áp dụng việc nộp hồ sơ trực tuyến giúp giảm thời gian làm việc của người dân.

         3.2. Về tài chính

         Để thực hiện chuyển đổi hoạt động từ mô hình bao cấp sang mô hình tự chủ về tài chính, các đơn vị sự nghiệp công lập cần phải chuẩn bị tốt phương án tài chính trước chuyển đổi.

         Trước khi chuyển đổi cần xác định rõ thế mạnh của đơn vị để xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, tạo ra nguồn thu ổn định cho đơn vị

         Tranh thủ thời cơ để được đầu tư tăng cường năng lực để trên cơ sở đó tạo ra nguồn thu đảm bảo cho việc hoạt động thường xuyên của đơn vị.

         3.3. Về tổ chức

         Trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cơ quan quản lý Nhà nước là đơn vị chủ quản và các đơn vị sự nghiệp công lập của mình, sự phân chia quyền lực và giám sát nào vẫn đảm bảo việc Nhà nước thực hiện “chức năng quản lý vĩ mô” trong khi vẫn tăng khả năng tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập nhằm giải phóng năng lực tiềm tàng và sự nhiệt tình của đơn vị. Quyền được tự chủ cao hơn, được tham gia nhiều hơn là cơ sở để xây dựng ý thức trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập, cũng như các phương thức giám sát nhằm giảm thiểu tính cơ hội, tệ tham nhũng và chi tiêu kém hiệu quả.

         3.4. Về nhân sự

         Sự phát triển của một đơn vị được nhìn thấy ở 2 điểm: Sự xây dựng cơ sở vật chất và việc phát triển đội ngũ nhân lực. Trong nền kinh tế tri thức, cơ sở vật chất thôi chưa đủ làm nên uy tín của một tổ chức, nhất là đối với một đơn vị sự nghiệp công lập thuộc sự quản lý của nhà nước. Bên cạnh đó phải có một đội ngũ mạnh- đủ về số lượng, khỏe về chất lượng. Có như vậy, đơn vị sự nghiệp công lập mới tự chủ được. Các đơn vị sự nghiệp công lập cần có chủ trương trong xây dựng nguồn nhân lực là: tận dụng tối đa trình độ chuyên môn cao của những viên chức và người lao động có trình độ, có học hàm học vị đang công tác tại đơn vị; nhanh chóng tuyển dụng và phát triển đội ngũ người lao động trẻ; đồng thời, giảm tối đa nhân sự không phù hợp với công việc.

         Quyền tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập trong quản lý đội ngũ thể hiện ở sự tự do tuyển chọn, bố trí viên chức và người lao động vào các vị trí lao động cần thiết. Các đơn vị sự nghiệp công lập còn có quyền tự chủ trong việc xác định các điều kiện cho viên chức và người lao động làm việc thuận lợi. Viên chức và người lao động của đơn vị có quyền tham gia các công việc khác để tạo thêm thu nhập cho bản thân và cơ quan theo đúng chức năng của đơn vị. Cần thực hiện sử dụng chế độ trả lương theo kết quả công việc nhằm khuyến khích những người làm việc với kết quả công việc cao. Quyền tự chủ trong quản lý đội ngũ là điều kiện để các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện có hiệu quả chức năng và nhiệm vụ vủa mình.

         Về việc quản lý nhân sự: Cần công nghệ hóa các thủ tục lưu trữ hồ sơ nhân sự để giảm bớt công lao động trong khâu hành chính. Ngoài ra, để kiểm soát việc thực hiện giờ giấc làm việc của viên chức và người lao động, cần áp dụng máy bấm vân tay tại công sở để nâng cao hiệu quả của việc kiểm soát giờ làm, tránh tình trạng phổ biến hiện nay ở chốn công sở “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về”. Kết quả kiểm soát này sẽ mang tính minh bạch, có thể làm cơ sở để đánh giá viên chức và người lao động cuối năm.

         Nâng cao quyền tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với yêu cầu thực tế. Thực hiện tốt chính sách này sẽ có tác động rất quan trọng trong việc tạo động lực và thúc đẩy sự phát triển của các đơn vị sự nghiệp công lập. Với sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, tư duy và hành động của các đơn vị sự nghiệp công cùng với sự quyết tâm rất lớn của các cấp chính quyền hy vọng các chính sách của Nhà nước về chuyển đổi cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập sang tư chủ sớm đi vào thực tiễn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Nghị định số 54/2016/NĐ-CP ngày 14 tháng 6 năm 2016 của Chính phủ về quy định cơ chế tự chủ của tổ chức khoa học và công nghệ.

[2]. Trung tâm Ứng dụng tiến bộ Khoa học và Công nghệ tỉnh Gia Lai, Báo cáo số 02/BC-TTUD về việc tổng hợp tình hình triển khai cơ chế tự chủ tài chính của tổ chức khoa học và công nghệ công lập theo Nghị định 54/2016/NĐ-CP, ngày 20/01/2020.

[3]. Tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước hiện nay (2011),

Website:http://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/tu-tuong-ho-chi-minh-trong-cong-cuoc-cai-cach-nen-hanh-chinh-nha-nuoc-hien-nay-71348.html

[4] Đỗ Minh Thông (2019), Thực trạng tự chủ tài chính đại học công lập và một số đề xuất, kiến nghị, Website: http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/thuc-trang-tu-chu-tai-chinh-dai-hoc-cong-lap-mot-so-de-xuat-kien-nghi-313646.html

Tin liên quan
Tin mới nhất

Tin tức